trang_banner

Một bài viết đánh giá mười kỹ thuật đặt nội khí quản hàng đầu cho ERCP

ERCP là một công nghệ quan trọng để chẩn đoán và điều trị các bệnh về đường mật và tuyến tụy. Một khi nó ra đời, nó đã cung cấp nhiều ý tưởng mới cho việc điều trị các bệnh về đường mật và tuyến tụy. Nó không giới hạn ở "chụp X quang". Nó đã chuyển đổi từ công nghệ chẩn đoán ban đầu sang một loại mới. Kỹ thuật điều trị bao gồm cắt cơ thắt, lấy sỏi ống mật, dẫn lưu mật và các phương pháp khác để điều trị các bệnh về hệ thống mật và tuyến tụy.

Tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản chọn lọc qua ống mật chủ bằng ERCP có thể đạt trên 90%, tuy nhiên vẫn có một số trường hợp đường vào đường mật khó gây ra thất bại khi đặt nội khí quản chọn lọc vào ống mật chủ. Theo thống nhất mới nhất về chẩn đoán và điều trị ERCP, đặt nội khí quản khó có thể được định nghĩa là: thời gian đặt nội khí quản chọn lọc của núm vú chính của ERCP thông thường là hơn 10 phút hoặc số lần đặt nội khí quản lớn hơn 5 lần. Khi thực hiện ERCP, nếu một số trường hợp khó đặt nội khí quản, nên lựa chọn chiến lược hiệu quả kịp thời để cải thiện tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản. Bài viết này tiến hành đánh giá có hệ thống về một số kỹ thuật đặt nội khí quản phụ trợ được sử dụng để giải quyết việc đặt nội khí quản khó khăn, nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết cho các bác sĩ nội soi lâm sàng để lựa chọn chiến lược đáp ứng khi gặp phải đặt nội khí quản khó trong ERCP.

I. Kỹ thuật dây dẫn đơn, SGT

Kỹ thuật SGT là sử dụng ống thông cản quang để tiếp tục cố gắng đặt nội khí quản vào ống mật sau khi dây dẫn đi vào ống tụy. Trong những ngày đầu phát triển công nghệ ERCP, SGT là phương pháp phổ biến cho đặt nội khí quản khó. Ưu điểm của nó là thao tác đơn giản, cố định núm vú, có thể chiếm lỗ mở của ống tụy, giúp việc tìm kiếm lỗ mở của ống mật dễ dàng hơn.

Có báo cáo trong tài liệu cho rằng sau khi đặt nội khí quản thông thường thất bại, việc chọn đặt nội khí quản có hỗ trợ SGT có thể hoàn thành thành công việc đặt nội khí quản trong ống mật trong khoảng 70% -80% trường hợp. Báo cáo cũng chỉ ra rằng trong trường hợp sai sót SGT, ngay cả việc điều chỉnh và áp dụng biện pháp képdây dẫnCông nghệ này không cải thiện tỷ lệ đặt nội khí quản thành công và không làm giảm tỷ lệ mắc bệnh viêm tụy sau ERCP (PEP).

Một số nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ đặt nội khí quản SGT thành công thấp hơn so với đặt nội khí quản gấp đôidây dẫnvà công nghệ cắt cơ vòng nhú xuyên tụy. So với những nỗ lực lặp đi lặp lại của SGT, việc triển khai sớm gấp đôidây dẫncông nghệ hoặc công nghệ trước rạch có thể đạt được kết quả tốt hơn.

Kể từ khi phát triển ERCP, nhiều công nghệ mới đã được phát triển cho việc đặt nội khí quản khó. So với đơndây dẫncông nghệ, ưu điểm rõ ràng hơn và tỷ lệ thành công cao hơn. Vì thế, đơndây dẫncông nghệ hiện nay hiếm khi được sử dụng trên lâm sàng.

II.Kỹ thuật dây dẫn đôi, DGT

DGT có thể được gọi là phương pháp sử dụng dây dẫn hướng ống tụy, nghĩa là để dây dẫn hướng đi vào ống tụy để theo dõi và chiếm giữ nó, sau đó dây dẫn hướng thứ hai có thể được áp dụng lại phía trên dây dẫn hướng ống tụy. Đặt nội khí quản chọn lọc vào ống mật.

Ưu điểm của phương pháp này là:

(1) Với sự hỗ trợ củadây dẫn, lỗ mở ống mật dễ tìm hơn, giúp việc đặt ống mật dễ dàng hơn;

(2) Dây dẫn có thể cố định núm vú;

(3) Dưới sự hướng dẫn của ống tụydây dẫn, có thể tránh được hình ảnh lặp lại của ống tụy, do đó làm giảm sự kích thích của ống tụy do đặt nội khí quản nhiều lần.

Dumonceau và cộng sự. nhận thấy rằng dây dẫn và ống thông tương phản có thể được đưa vào lỗ sinh thiết cùng một lúc, sau đó báo cáo một trường hợp thành công của phương pháp chiếm giữ dây dẫn ống tụy và kết luận rằngdây dẫnPhương pháp chiếm ống tụy thành công trong đặt ống nội khí quản. tỷ giá có tác động tích cực.

Một nghiên cứu về DGT của Liu Deren et al. nhận thấy rằng sau khi DGT được thực hiện trên những bệnh nhân đặt nội khí quản ERCP khó, tỷ lệ đặt nội khí quản thành công đạt 95,65%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ thành công 59,09% của đặt nội khí quản thông thường.

Một nghiên cứu tiền cứu của Wang Fuquan et al. chỉ ra rằng khi DGT được áp dụng cho những bệnh nhân đặt nội khí quản ERCP khó trong nhóm thử nghiệm, tỷ lệ đặt nội khí quản thành công cao tới 96,0%.

Các nghiên cứu trên cho thấy việc áp dụng DGT cho bệnh nhân đặt nội khí quản khó bằng ERCP có thể cải thiện hiệu quả tỷ lệ đặt nội khí quản thành công.

Những thiếu sót của DGT chủ yếu bao gồm hai điểm sau:

(1) Tuyến tụydây dẫncó thể bị mất trong quá trình đặt nội khí quản vào ống mật, hoặc lần thứ haidây dẫncó thể đi vào ống tụy trở lại;

(2) Phương pháp này không phù hợp với các trường hợp như ung thư đầu tụy, ống tụy quanh co và phân hạch tuyến tụy.
Từ góc độ tỷ lệ mắc PEP, tỷ lệ mắc PEP của DGT thấp hơn so với đặt nội khí quản thông thường. Một nghiên cứu tiền cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc PEP sau DGT chỉ là 2,38% ở bệnh nhân ERCP đặt nội khí quản khó. Một số tài liệu chỉ ra rằng mặc dù DGT có tỷ lệ đặt nội khí quản thành công cao hơn nhưng tỷ lệ viêm tụy sau DGT vẫn cao hơn so với các biện pháp khắc phục khác, vì hoạt động DGT có thể gây tổn thương ống tụy và lỗ mở của nó. Mặc dù vậy, sự đồng thuận trong và ngoài nước vẫn chỉ ra rằng trong những trường hợp đặt nội khí quản khó, khi đặt nội khí quản khó và ống tụy bị nhầm nhiều lần thì DGT là lựa chọn hàng đầu vì công nghệ DGT vận hành tương đối ít khó khăn và tương đối dễ dàng. để kiểm soát. Nó được sử dụng rộng rãi trong đặt nội khí quản khó chọn lọc.

III.Stent dẫn hướng dây dẫn-pan-creatic,WGC-P5

WGC-PS còn có thể được gọi là phương pháp đặt stent ống tụy. Phương pháp này là đặt stent ống tụy bằngdây dẫnđi nhầm vào ống tụy rồi rút radây dẫnvà thực hiện đặt ống mật phía trên stent.

Một nghiên cứu của Hakuta et al. cho thấy ngoài việc cải thiện tỷ lệ đặt nội khí quản thành công tổng thể bằng cách hướng dẫn đặt nội khí quản, WGC-PS còn có thể bảo vệ lỗ mở của ống tụy và giảm đáng kể sự xuất hiện của PEP.

Một nghiên cứu về WGC-PS của Zou Chuanxin et al. chỉ ra rằng tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản khó bằng phương pháp đặt stent ống tụy tạm thời đạt 97,67% và tỷ lệ mắc PEP giảm đáng kể.

Một nghiên cứu cho thấy rằng khi đặt stent ống tụy đúng cách, nguy cơ viêm tụy nặng sau phẫu thuật trong những trường hợp đặt nội khí quản khó sẽ giảm đáng kể.

Phương pháp này vẫn còn một số nhược điểm. Ví dụ, stent ống tụy được lắp vào trong quá trình phẫu thuật ERCP có thể bị dịch chuyển; Nếu cần đặt stent trong thời gian dài sau ERCP thì nguy cơ tắc nghẽn stent và tắc ống dẫn lưu rất cao. Chấn thương và các vấn đề khác dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc PEP. Hiện tại, các tổ chức đã bắt đầu nghiên cứu các stent ống tụy tạm thời có thể tự động di chuyển ra khỏi ống tụy. Mục đích là sử dụng stent ống tụy để ngăn ngừa PEP. Ngoài việc giảm đáng kể tỷ lệ tai nạn PEP, những ống đỡ động mạch như vậy còn có thể tránh được các hoạt động khác để tháo ống đỡ động mạch và giảm bớt gánh nặng cho bệnh nhân. Mặc dù các nghiên cứu đã chỉ ra rằng stent ống tụy tạm thời có tác dụng tích cực trong việc giảm PEP, nhưng ứng dụng lâm sàng của chúng vẫn còn những hạn chế lớn. Ví dụ, ở những bệnh nhân có ống tụy mỏng và nhiều nhánh, rất khó để đặt stent ống tụy. Độ khó sẽ tăng lên rất nhiều và ca phẫu thuật này đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của bác sĩ nội soi. Điều đáng chú ý là stent ống tụy được đặt không được quá dài trong lòng tá tràng. Stent quá dài có thể gây thủng tá tràng. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp đặt stent ống tụy vẫn cần phải thận trọng.

IV.Cắt cơ thắt xuyên tụy,TPS

Công nghệ TPS thường được sử dụng sau khi dây dẫn do nhầm lẫn đi vào ống tụy. Vách ngăn giữa ống tụy được rạch dọc theo hướng của dây dẫn ống tụy từ 11 giờ đến 12 giờ, sau đó đưa ống theo hướng ống mật cho đến khi dây dẫn vào mật. ống dẫn.

Một nghiên cứu của Dai Xin et al. so sánh TPS và hai công nghệ đặt nội khí quản phụ trợ khác. Có thể thấy tỷ lệ thành công của công nghệ TPS rất cao, đạt 96,74%, tuy nhiên lại chưa cho kết quả vượt trội so với 2 công nghệ đặt nội khí quản phụ còn lại. Những lợi thế.

Nó đã được báo cáo rằng các đặc điểm của công nghệ TPS bao gồm các điểm sau:

(1) Vết mổ nhỏ đối với vách ngăn mật tụy;

(2) Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật thấp;

(3) Việc lựa chọn hướng cắt dễ kiểm soát;

(4) Phương pháp này có thể được sử dụng cho những bệnh nhân được đặt nội khí quản vào ống tụy nhiều lần hoặc núm vú trong túi thừa.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng TPS không chỉ có thể cải thiện hiệu quả tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản khó mà còn không làm tăng tỷ lệ biến chứng sau ERCP. Một số học giả cho rằng nếu đặt nội khí quản vào ống tụy hoặc nhú tá tràng nhỏ xảy ra nhiều lần thì TPS nên được xem xét trước tiên. Tuy nhiên, khi áp dụng TPS cần chú ý đến khả năng hẹp ống tụy và tái phát viêm tụy, đây là những nguy cơ lâu dài có thể xảy ra của TPS.

V.Cắt cơ vòng trước,PST

Kỹ thuật PST sử dụng dải vòng cung nhú làm giới hạn trên của vết mổ trước và hướng 1-2 giờ làm ranh giới để mở cơ vòng nhú tá tràng để tìm lỗ mở của ống mật và ống tụy. Ở đây PST đặc biệt đề cập đến kỹ thuật rạch trước cơ vòng núm vú tiêu chuẩn bằng cách sử dụng dao hình vòng cung. Là một chiến lược để giải quyết vấn đề đặt nội khí quản khó trong ERCP, công nghệ PST đã được nhiều người coi là lựa chọn hàng đầu cho việc đặt nội khí quản khó. Cắt trước cơ vòng núm vú qua nội soi là việc nội soi rạch niêm mạc bề mặt nhú và một lượng nhỏ cơ vòng thông qua dao rạch để tìm lỗ hở của ống mật, sau đó sử dụng mộtdây dẫnhoặc ống thông để đặt nội khí quản vào ống mật.

Một nghiên cứu trong nước cho thấy tỷ lệ thành công của PST lên tới 89,66%, không khác biệt đáng kể so với DGT và TPS. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc PEP trong PST cao hơn đáng kể so với DGT và TPS.

Hiện nay, quyết định sử dụng công nghệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ, một báo cáo cho biết PST được sử dụng tốt nhất trong trường hợp nhú tá tràng bất thường hoặc bị biến dạng, chẳng hạn như hẹp tá tràng hoặc khối u ác tính.
Ngoài ra, so với các chiến lược đối phó khác, PST có tỷ lệ biến chứng như PEP cao hơn và yêu cầu phẫu thuật cao nên phẫu thuật này được thực hiện tốt nhất bởi các bác sĩ nội soi có kinh nghiệm.

VI.Phẫu thuật cắt u nhú bằng dao kim,NKP

NKP là kỹ thuật đặt ống nội khí quản có sự hỗ trợ của dao kim. Khi khó đặt nội khí quản, có thể dùng dao kim để rạch một phần nhú hoặc cơ thắt từ lỗ nhú tá tràng theo hướng 11-12 giờ, sau đó dùng dụng cụdây dẫnhoặc ống thông để chèn chọn lọc vào ống mật chung. Là một chiến lược đối phó với việc đặt ống mật khó, NKP có thể cải thiện hiệu quả tỷ lệ thành công của việc đặt nội khí quản khó. Trước đây, người ta thường tin rằng NKP sẽ làm tăng tỷ lệ mắc PEP trong những năm gần đây. Trong những năm gần đây, nhiều báo cáo phân tích hồi cứu đã chỉ ra rằng NKP không làm tăng nguy cơ biến chứng sau phẫu thuật. Điều đáng chú ý là nếu NKP được thực hiện trong giai đoạn đầu của quá trình đặt nội khí quản khó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc nâng cao tỷ lệ đặt nội khí quản thành công. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự thống nhất về thời điểm áp dụng NKP để đạt được kết quả tốt nhất. Một nghiên cứu báo cáo rằng tỷ lệ đặt nội khí quản của NKP được áp dụng trongERCPdưới 20 phút cao hơn đáng kể so với NKP áp dụng muộn hơn 20 phút.

Những bệnh nhân đặt ống mật khó sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ ​​kỹ thuật này nếu họ bị phồng núm vú hoặc giãn ống mật đáng kể. Ngoài ra, có báo cáo cho rằng khi gặp những trường hợp đặt nội khí quản khó, việc sử dụng kết hợp TPS và NKP có tỷ lệ thành công cao hơn so với chỉ áp dụng riêng lẻ. Nhược điểm là kỹ thuật rạch nhiều vết trên núm vú sẽ làm tăng khả năng xảy ra biến chứng. Vì vậy, cần nhiều nghiên cứu hơn để chứng minh nên chọn mổ sớm để giảm thiểu biến chứng hay kết hợp nhiều biện pháp khắc phục để nâng cao tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản khó.

VII.Phẫu thuật cắt lỗ rò bằng dao kim, NKE

Kỹ thuật NKF là dùng dao kim đâm vào niêm mạc cách núm vú khoảng 5mm, dùng dòng điện hỗn hợp rạch từng lớp theo hướng 11 giờ cho đến khi tìm thấy cấu trúc dạng lỗ hoặc tràn mật, sau đó sử dụng một dây dẫn hướng để phát hiện dòng chảy ra của mật và vết mổ của mô. Đặt nội khí quản có chọn lọc được thực hiện ở vị trí vàng da. Phẫu thuật NKF cắt phía trên lỗ núm vú. Do sự tồn tại của xoang ống mật, nó làm giảm đáng kể tổn thương nhiệt và tổn thương cơ học đối với việc mở ống tụy, điều này có thể làm giảm tỷ lệ mắc PEP.

Một nghiên cứu của Jin và cộng sự. chỉ ra rằng tỷ lệ đặt nội khí quản bằng ống NK thành công có thể đạt tới 96,3% và không có PEP sau phẫu thuật. Ngoài ra, tỷ lệ NKF thành công trong việc lấy sỏi cao tới 92,7%. Vì vậy, nghiên cứu này khuyến cáo NKF là lựa chọn hàng đầu để lấy sỏi ống mật chủ. . So với phẫu thuật cắt u nhú thông thường, rủi ro của phẫu thuật NKF vẫn cao hơn, dễ xảy ra các biến chứng như thủng và chảy máu, đồng thời đòi hỏi trình độ vận hành cao của bác sĩ nội soi. Điểm mở cửa sổ chính xác, độ sâu thích hợp và kỹ thuật chính xác đều cần được học dần dần. bậc thầy.

So với các phương pháp trước rạch khác, NKF là phương pháp thuận tiện hơn và tỷ lệ thành công cao hơn. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải thực hành lâu dài và tích lũy liên tục mới thành thạo nên phương pháp này không phù hợp với người mới bắt đầu.

VIII.Lặp lại-ERCP

Như đã đề cập ở trên, có nhiều cách để giải quyết việc đặt nội khí quản khó khăn. Tuy nhiên, không có gì đảm bảo thành công 100%. Các tài liệu liên quan đã chỉ ra rằng trong một số trường hợp, khi đặt ống nội khí quản khó khăn, việc đặt nội khí quản lâu dài và nhiều lần hoặc hiệu ứng thâm nhập nhiệt của việc cắt trước có thể dẫn đến phù nề tá tràng. Nếu tiếp tục phẫu thuật, không những việc đặt nội khí quản vào ống mật không thành công mà nguy cơ biến chứng cũng tăng lên. Nếu tình trạng trên xảy ra, bạn có thể xem xét việc chấm dứt hiện tạiERCPhoạt động đầu tiên và thực hiện ERCP thứ hai vào thời điểm tùy chọn. Sau khi phù gai thị biến mất, phẫu thuật ERCP sẽ dễ dàng đặt nội khí quản thành công hơn.

Donnellan và cộng sự. thực hiện một giâyERCPPhẫu thuật trên 51 bệnh nhân ERCP thất bại sau phẫu thuật trước bằng dao kim và 35 trường hợp thành công, tỷ lệ biến chứng không tăng.

Kim và cộng sự. thực hiện ca phẫu thuật ERCP thứ hai trên 69 bệnh nhân thất bạiERCPsau rạch trước bằng dao kim và 53 trường hợp thành công, tỷ lệ thành công là 76,8%. Các trường hợp không thành công còn lại cũng được phẫu thuật ERCP lần thứ ba, với tỷ lệ thành công là 79,7%. và nhiều cuộc phẫu thuật không làm tăng sự xuất hiện của các biến chứng.

Yu Li và cộng sự. thực hiện môn tự chọn trung họcERCPtrên 70 bệnh nhân thất bại với ERCP sau khi rạch trước bằng dao kim và 50 trường hợp đã thành công. Tỷ lệ thành công chung (ERCP đầu tiên + ERCP thứ cấp) tăng lên 90,6% và tỷ lệ biến chứng không tăng đáng kể. . Mặc dù các báo cáo đã chứng minh tính hiệu quả của ERCP thứ cấp, khoảng thời gian giữa hai ca phẫu thuật ERCP không nên quá dài và trong một số trường hợp đặc biệt, việc dẫn lưu đường mật bị trì hoãn có thể làm tình trạng nặng thêm.

IX.Dẫn lưu mật dưới hướng dẫn siêu âm nội soi, EUS-BD

EUS-BD là một thủ thuật xâm lấn sử dụng kim đâm để chọc thủng túi mật từ dạ dày hoặc lòng tá tràng dưới hướng dẫn của siêu âm, đi vào tá tràng qua nhú tá tràng và sau đó thực hiện đặt ống nội khí quản. Kỹ thuật này bao gồm cả phương pháp tiếp cận trong gan và ngoài gan.

Một nghiên cứu hồi cứu báo cáo tỷ lệ thành công của EUS-BD đạt 82% và tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật chỉ là 13%. Trong một nghiên cứu so sánh, EUS-BD so với công nghệ trước rạch, tỷ lệ đặt nội khí quản thành công của nó cao hơn, đạt 98,3%, cao hơn đáng kể so với 90,3% của trước rạch. Tuy nhiên, cho đến nay so với các công nghệ khác vẫn còn thiếu các nghiên cứu về ứng dụng EUS cho các trường hợp khó khăn.ERCPđặt nội khí quản. Không đủ dữ liệu để chứng minh tính hiệu quả của công nghệ chọc ống mật dưới hướng dẫn của EUS đối với những trường hợp khóERCPđặt nội khí quản. Một số nghiên cứu cho thấy nó đã giảm. Vai trò của PEP sau phẫu thuật là không thuyết phục.

X. Dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da, PTCD

PTCD là một kỹ thuật kiểm tra xâm lấn khác có thể được sử dụng kết hợp vớiERCPtrong trường hợp đặt nội khí quản khó khăn, đặc biệt trong trường hợp tắc nghẽn đường mật ác tính. Kỹ thuật này dùng kim đâm xuyên qua da vào ống mật, chọc ống mật qua nhú, sau đó đặt nội khí quản ngược dòng qua một ống dẫn lưu dành riêng.dây dẫn. Một nghiên cứu đã phân tích 47 bệnh nhân đặt nội khí quản khó khăn đã trải qua kỹ thuật PTCD và tỷ lệ thành công đạt 94%.

Một nghiên cứu của Yang et al. chỉ ra rằng việc áp dụng EUS-BD rõ ràng bị hạn chế khi bị hẹp rốn phổi và cần phải chọc thủng ống mật trong gan phải, trong khi PTCD có ưu điểm là phù hợp với trục ống mật và linh hoạt hơn trong các thiết bị dẫn đường. Nên đặt nội khí quản vào ống mật ở những bệnh nhân như vậy.

PTCD là một hoạt động khó khăn, đòi hỏi phải đào tạo có hệ thống lâu dài và hoàn thành đủ số lượng trường hợp. Rất khó để người mới hoàn thành thao tác này. PTCD không chỉ khó vận hành mà còndây dẫncũng có thể làm hỏng ống mật trong quá trình tiến triển.

Mặc dù các phương pháp trên có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ thành công của đặt nội khí quản khó khăn, việc lựa chọn cần phải được xem xét toàn diện. Khi biểu diễnERCP, SGT, DGT, WGC-PS và các kỹ thuật khác có thể được xem xét; nếu các kỹ thuật trên không thành công, bác sĩ nội soi có thâm niên và kinh nghiệm có thể thực hiện các kỹ thuật trước mổ như TPS, NKP, NKF, v.v.; nếu vẫn còn Nếu không thể hoàn thành đặt nội khí quản chọn lọc vào ống mật, đặt nội khí quản thứ cấp tự chọnERCPcó thể được lựa chọn; nếu không có kỹ thuật nào ở trên có thể giải quyết được vấn đề đặt nội khí quản khó khăn thì có thể thử các phẫu thuật xâm lấn như EUS-BD và PTCD để giải quyết vấn đề và có thể chọn phương pháp điều trị bằng phẫu thuật nếu cần thiết.

Chúng tôi, Jiangxi Zhuoruihua Medical Instrument Co., Ltd., là nhà sản xuất tại Trung Quốc chuyên về các vật tư tiêu hao nội soi, chẳng hạn như kẹp sinh thiết, kẹp cầm máu, bẫy polyp, kim trị liệu xơ cứng, ống thông phun, bàn chải tế bào học,dây dẫn, giỏ thu hồi đá, ống thông dẫn lưu đường mật mũivv được sử dụng rộng rãi trong EMR, ESD,ERCP. Sản phẩm của chúng tôi được chứng nhận CE và các nhà máy của chúng tôi được chứng nhận ISO. Hàng hóa của chúng tôi đã được xuất khẩu sang Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông và một phần Châu Á, đồng thời nhận được sự công nhận và khen ngợi rộng rãi của khách hàng!

ERCP


Thời gian đăng: Jan-31-2024